Kể từ khi Sculco và cộng sự lần đầu tiên báo cáo phẫu thuật thay khớp háng toàn phần (THA) đường mổ nhỏ với đường mổ sau-ngoài vào năm 1996, một số cải tiến ít xâm lấn mới đã được báo cáo. Ngày nay, khái niệm ít xâm lấn đã được phổ biến rộng rãi và dần được các bác sĩ lâm sàng chấp nhận. Tuy nhiên, vẫn chưa có quyết định rõ ràng về việc nên sử dụng phương pháp ít xâm lấn hay phương pháp thông thường.
Ưu điểm của phẫu thuật xâm lấn tối thiểu bao gồm vết mổ nhỏ hơn, ít chảy máu, ít đau và phục hồi nhanh hơn; tuy nhiên, nhược điểm bao gồm trường nhìn hạn chế, dễ gây tổn thương thần kinh mạch máu, vị trí đặt chân giả kém và nguy cơ phẫu thuật tái tạo tăng cao.
Trong phẫu thuật thay khớp háng toàn phần ít xâm lấn (MIS – THA), mất sức mạnh cơ sau phẫu thuật là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hồi phục, và phương pháp phẫu thuật cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sức mạnh cơ. Ví dụ, các phương pháp tiếp cận trước-ngoài và trước-trực tiếp có thể làm tổn thương các nhóm cơ dạng, dẫn đến dáng đi lắc lư (đi khập khiễng Trendelenburg).
Trong nỗ lực tìm kiếm các phương pháp xâm lấn tối thiểu giúp giảm thiểu tổn thương cơ, Tiến sĩ Amanatullah và cộng sự từ Bệnh viện Mayo tại Hoa Kỳ đã so sánh hai phương pháp MIS-THA, phương pháp tiếp cận trực tiếp trước (DA) và phương pháp tiếp cận trực tiếp trên (DS), trên các mẫu vật tử thi để xác định tổn thương cơ và gân. Kết quả nghiên cứu này cho thấy phương pháp DS ít gây tổn thương cơ và gân hơn phương pháp DA và có thể là phương pháp được ưu tiên lựa chọn cho MIS-THA.
Thiết kế thử nghiệm
Nghiên cứu được tiến hành trên tám thi thể đông lạnh tươi với tám cặp hông, mỗi cặp 16 cái, không có tiền sử phẫu thuật hông. Một hông được chọn ngẫu nhiên để thực hiện MIS-THA theo phương pháp DA và hông còn lại theo phương pháp DS trên một thi thể, và tất cả các thủ thuật đều được thực hiện bởi các bác sĩ lâm sàng giàu kinh nghiệm. Mức độ tổn thương cơ và gân cuối cùng được đánh giá bởi một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, người không tham gia vào ca phẫu thuật.
Các cấu trúc giải phẫu được đánh giá bao gồm: cơ mông lớn, cơ mông giữa và gân cơ mông, cơ mông nhỏ và gân cơ mông, cơ rộng cân đùi rộng, cơ tứ đầu đùi, cơ thang trên, cơ piatto, cơ thang dưới, cơ bịt trong và cơ bịt ngoài (Hình 1). Các cơ được đánh giá tình trạng rách cơ và đau nhức có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Hình 1 Sơ đồ giải phẫu của từng cơ
Kết quả
1. Tổn thương cơ: Không có sự khác biệt thống kê về mức độ tổn thương bề mặt cơ mông giữa giữa phương pháp DA và DS. Tuy nhiên, đối với cơ mông bé, tỷ lệ tổn thương bề mặt do phương pháp DA cao hơn đáng kể so với phương pháp DS, và không có sự khác biệt đáng kể nào giữa hai phương pháp đối với cơ tứ đầu đùi. Không có sự khác biệt đáng kể nào về mặt thống kê giữa hai phương pháp về tổn thương cơ tứ đầu đùi, và tỷ lệ tổn thương bề mặt cơ vastus tensor fasciae latae và cơ thẳng đùi cao hơn ở phương pháp DA so với phương pháp DS.
2. Chấn thương gân: Cả hai phương pháp đều không gây ra chấn thương đáng kể.
3. Cắt gân: Chiều dài cắt gân cơ mông bé ở nhóm DA cao hơn đáng kể so với nhóm DS, và tỷ lệ chấn thương cũng cao hơn đáng kể ở nhóm DS. Không có sự khác biệt đáng kể về chấn thương cắt gân giữa hai nhóm đối với cơ lê và cơ bịt trong. Sơ đồ phẫu thuật được thể hiện ở Hình 2, Hình 3 cho thấy đường mổ bên truyền thống, và Hình 4 cho thấy đường mổ sau truyền thống.
Hình 2 1a. Cắt ngang hoàn toàn gân cơ mông nhỏ trong quá trình phẫu thuật DA do cần cố định xương đùi; 1b. Cắt ngang một phần cơ mông nhỏ cho thấy mức độ tổn thương ở gân và bụng cơ. gt. mấu chuyển lớn; * cơ mông nhỏ.
Hình 3 Sơ đồ phương pháp tiếp cận trực tiếp bên truyền thống với ổ cối có thể nhìn thấy ở bên phải với lực kéo thích hợp
Hình 4 Phơi bày cơ xoay ngoài ngắn trong phương pháp tiếp cận THA sau thông thường
Kết luận và ý nghĩa lâm sàng
Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về thời gian phẫu thuật, kiểm soát đau, tốc độ truyền máu, lượng máu mất, thời gian nằm viện và dáng đi khi so sánh phẫu thuật thay van động mạch chủ (THA) thông thường với phẫu thuật thay van động mạch chủ (MIS-THA). Một nghiên cứu lâm sàng về phẫu thuật thay van động mạch chủ (THA) với phương pháp tiếp cận thông thường và phẫu thuật thay van động mạch chủ ít xâm lấn do Repantis và cộng sự thực hiện cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào giữa hai phương pháp, ngoại trừ việc giảm đau đáng kể, và không có sự khác biệt đáng kể nào về chảy máu, khả năng đi lại hoặc phục hồi chức năng sau phẫu thuật. Một nghiên cứu lâm sàng của Goosen và cộng sự
Một thử nghiệm RCT của Goosen và cộng sự cho thấy điểm HHS trung bình tăng lên sau khi tiếp cận phẫu thuật xâm lấn tối thiểu (gợi ý khả năng phục hồi tốt hơn), nhưng thời gian phẫu thuật dài hơn và biến chứng quanh phẫu thuật nhiều hơn đáng kể. Trong những năm gần đây, cũng đã có nhiều nghiên cứu đánh giá tổn thương cơ và thời gian phục hồi sau phẫu thuật do tiếp cận phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, nhưng những vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nghiên cứu này cũng được thực hiện dựa trên những vấn đề tương tự.
Trong nghiên cứu này, phương pháp DS gây ra ít tổn thương mô cơ hơn đáng kể so với phương pháp DA, bằng chứng là tổn thương cơ mông nhỏ và gân cơ mông nhỏ, cơ vastus tensor fasciae latae và cơ thẳng đùi ít hơn đáng kể. Những tổn thương này được xác định bởi chính phương pháp DA và rất khó phục hồi sau phẫu thuật. Do nghiên cứu này sử dụng mẫu vật từ tử thi, cần có các nghiên cứu lâm sàng để tìm hiểu sâu hơn ý nghĩa lâm sàng của kết quả này.
Thời gian đăng: 01-11-2023