hình dạng của mặt khum
Sụn chêm trong và ngoài.
Khoảng cách giữa hai đầu của sụn chêm giữa lớn, có hình chữ "C" và cạnh được kết nối vớichung bao khớp và lớp sâu của dây chằng bên trong.
Sụn chêm ngoài có hình chữ "O". Gân khoeo tách sụn chêm khỏi bao khớp ở giữa và 1/3 sau, tạo thành một khe hở. Sụn chêm ngoài tách khỏi dây chằng bên ngoài.


Chỉ định phẫu thuật cổ điển chokhâu sụn chêmlà vết rách dọc ở vùng đỏ. Với sự cải tiến của thiết bị và công nghệ, hầu hết các chấn thương sụn chêm đều có thể khâu lại được, nhưng cần xem xét tuổi tác, diễn biến bệnh và giới hạn lực chi dưới của bệnh nhân. Trong trường hợp chấn thương kết hợp và nhiều tình huống khác, mục đích cuối cùng của việc khâu là hy vọng chấn thương sụn chêm sẽ lành lại, chứ không phải khâu để khâu lại!
Phương pháp khâu sụn chêm chủ yếu được chia thành ba loại: khâu ngoài vào trong, khâu trong ra ngoài và khâu toàn bộ vào trong. Tùy thuộc vào phương pháp khâu mà sẽ có dụng cụ khâu tương ứng. Đơn giản nhất là kim chọc dò tủy sống hoặc kim thông thường, ngoài ra còn có dụng cụ khâu sụn chêm chuyên dụng và dụng cụ khâu sụn chêm.

Phương pháp từ ngoài vào trong có thể được thực hiện bằng kim chọc dò thắt lưng cỡ 18 hoặc kim tiêm vát thông thường cỡ 12. Phương pháp này đơn giản và tiện lợi. Bệnh viện nào cũng có. Tất nhiên, cũng có kim chọc dò chuyên dụng. - Ⅱ và 0/2 của trạng thái tình yêu. Phương pháp từ ngoài vào trong tốn thời gian và không thể kiểm soát được đầu ra của kim ở sụn chêm trong khớp. Phương pháp này phù hợp với sừng trước và thân sụn chêm, nhưng không phù hợp với sừng sau.
Bất kể bạn luồn chỉ bằng cách nào, kết quả cuối cùng của phương pháp từ ngoài vào trong là chuyển hướng mũi khâu đi vào từ bên ngoài và qua vết rách sụn chêm ra bên ngoài cơ thể và thắt nút tại chỗ để hoàn thành mũi khâu sửa chữa.
Phương pháp từ trong ra ngoài tốt hơn và ngược lại với phương pháp từ ngoài vào trong. Kim và chì được đưa từ trong khớp ra ngoài khớp, đồng thời được cố định bằng nút thắt bên ngoài khớp. Phương pháp này có thể kiểm soát vị trí đâm kim của sụn chêm trong khớp, đường khâu gọn gàng và chắc chắn hơn. Tuy nhiên, phương pháp từ trong ra ngoài đòi hỏi dụng cụ phẫu thuật đặc biệt, và cần thêm đường rạch để bảo vệ mạch máu và dây thần kinh bằng vách ngăn cung khi khâu sừng sau.
Phương pháp All-Inside bao gồm công nghệ kim bấm, công nghệ móc khâu, công nghệ kẹp khâu, công nghệ neo và công nghệ đường hầm xuyên xương. Phương pháp này cũng phù hợp với chấn thương sừng trước nên ngày càng được các bác sĩ ưa chuộng, nhưng khâu nội khớp toàn phần đòi hỏi dụng cụ phẫu thuật chuyên dụng.

1. Kỹ thuật bấm kim là phương pháp bấm toàn khớp được sử dụng phổ biến nhất. Nhiều công ty như Smith Neighbour, Mitek, Linvatec, Arthrex, Zimmer, v.v. đều tự sản xuất máy bấm kim của mình, mỗi loại đều có ưu và nhược điểm riêng. Các bác sĩ thường lựa chọn theo sở thích và mức độ quen thuộc của mình. Trong tương lai, các loại máy bấm sụn chêm mới hơn và nhân bản hơn sẽ xuất hiện với số lượng lớn.
2. Công nghệ kẹp khâu bắt nguồn từ công nghệ nội soi khớp vai. Nhiều bác sĩ cho rằng kẹp khâu chóp xoay rất tiện lợi và nhanh chóng, có thể áp dụng cho khâu chấn thương sụn chêm. Hiện nay, có nhiều loại kẹp khâu tinh vi và chuyên biệt hơn.khâu sụn chêmCó sẵn trên thị trường. Kìm để bán. Do công nghệ kẹp khâu đơn giản hóa thao tác và rút ngắn đáng kể thời gian phẫu thuật, nên nó đặc biệt phù hợp với chấn thương ở gốc sau của sụn chêm, khó khâu.

3. Công nghệ neo thực sự phải đề cập đến thế hệ đầu tiênsửa chữa độ bão hòa sụn chêm, là loại kim bấm được thiết kế đặc biệt để khâu sụn chêm. Sản phẩm này hiện không còn được bán nữa.
Ngày nay, công nghệ neo thường đề cập đến việc sử dụng neo thật. Engelsohn và cộng sự lần đầu tiên báo cáo vào năm 2007 rằng phương pháp sửa chữa neo khâu được sử dụng để điều trị chấn thương rễ sau sụn chêm trong. Neo được đưa vào vùng in và khâu lại. Sửa chữa neo khâu có thể là một phương pháp tốt, nhưng dù là chấn thương rễ sau bán nguyệt trong hay ngoài, neo khâu có thể gặp nhiều vấn đề như thiếu phương pháp tiếp cận phù hợp, khó đặt và không thể vặn neo vuông góc với bề mặt xương. , trừ khi có sự thay đổi mang tính cách mạng trong chế tạo neo hoặc các lựa chọn tiếp cận phẫu thuật tốt hơn, nếu không thì sẽ khó trở thành một phương pháp đơn giản, thuận tiện, đáng tin cậy và được sử dụng phổ biến.
4. Kỹ thuật đường xuyên xương là một trong những phương pháp khâu nội khớp toàn phần. Năm 2006, Raustol lần đầu tiên sử dụng phương pháp này để khâu tổn thương rễ sau sụn chêm trong, sau đó được sử dụng chuyên biệt cho tổn thương rễ sau sụn chêm ngoài và rách thân sụn chêm quay ở vùng gân sụn chêm-khe khoeo, v.v. Phương pháp khâu xuyên xương là trước tiên cạo sụn tại điểm chèn sau khi xác nhận chấn thương dưới nội soi khớp, và sử dụng kính ngắm ACL chày hoặc kính ngắm chuyên dụng để ngắm và khoan đường hầm. Có thể sử dụng ống xương đơn hoặc ống xương đôi, và có thể sử dụng ống xương đơn. Phương pháp Đường hầm xương lớn hơn và thao tác đơn giản, nhưng mặt trước phải được cố định bằng nút. Phương pháp đường hầm xương đôi cần khoan thêm một đường hầm xương, điều này không dễ đối với người mới bắt đầu. Mặt trước có thể được thắt nút trực tiếp trên bề mặt xương và chi phí thấp.
Thời gian đăng: 23-09-2022