Trong vài thập kỷ qua, tỷ lệ gãy xương cánh tay gần (PHF) đã tăng hơn 28% và tỷ lệ phẫu thuật đã tăng hơn 10% ở những bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên. Rõ ràng, mật độ xương giảm và số lần ngã tăng là những yếu tố nguy cơ chính ở nhóm dân số cao tuổi ngày càng tăng. Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị phẫu thuật khác nhau để kiểm soát PHF bị di lệch hoặc mất ổn định, nhưng vẫn chưa có sự đồng thuận về phương pháp phẫu thuật tốt nhất cho người cao tuổi. Sự phát triển của các tấm ổn định góc đã cung cấp một lựa chọn điều trị cho phẫu thuật PHF, nhưng cần phải xem xét tỷ lệ biến chứng cao lên tới 40%. Các trường hợp được báo cáo phổ biến nhất là xẹp khép kèm theo vít bị bong ra và hoại tử vô mạch (AVN) ở đầu xương cánh tay.
Việc nắn chỉnh giải phẫu gãy xương, phục hồi mô men xương cánh tay và cố định vít dưới da chính xác có thể làm giảm các biến chứng này. Cố định vít thường khó thực hiện do chất lượng xương ở đầu xương cánh tay bị suy giảm do loãng xương. Để giải quyết vấn đề này, việc gia cố giao diện xương-vít có chất lượng xương kém bằng cách sử dụng xi măng xương polymethylmethacrylate (PMMA) xung quanh đầu vít là một phương pháp mới để cải thiện độ bền cố định của implant.
Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích đánh giá và phân tích kết quả chụp X-quang của PHF được điều trị bằng các tấm ổn định góc cạnh và tăng cường đầu vít ở những bệnh nhân trên 60 tuổi.
Ⅰ.Vật liệu và phương pháp
Tổng cộng có 49 bệnh nhân được đặt nẹp cố định góc và tăng cường thêm xi măng bằng vít cho PHF, và 24 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu dựa trên tiêu chí lựa chọn và loại trừ.

Tất cả 24 trường hợp gãy xương PHF đều được phân loại theo hệ thống phân loại HGLS do Sukthankar và Hertel giới thiệu bằng cách sử dụng hình ảnh chụp CT trước phẫu thuật. Phim chụp X-quang trước phẫu thuật cũng như phim chụp X-quang thường quy sau phẫu thuật đã được đánh giá. Việc nắn chỉnh giải phẫu đầy đủ của gãy xương được coi là đạt được khi củ xương cánh tay được nắn chỉnh lại và cho thấy khoảng hở hoặc độ lệch dưới 5 mm. Biến dạng khép được định nghĩa là độ nghiêng của đầu xương cánh tay so với thân xương cánh tay nhỏ hơn 125° và biến dạng valgus được định nghĩa là lớn hơn 145°.
Độ xuyên thủng của vít nguyên phát được định nghĩa là đầu vít xuyên qua ranh giới vỏ tủy của chỏm xương cánh tay. Độ dịch chuyển gãy thứ phát được định nghĩa là độ dịch chuyển của củ xương giảm hơn 5 mm và/hoặc góc nghiêng của mảnh chỏm thay đổi hơn 15° trên phim chụp X-quang theo dõi so với phim chụp X-quang trong khi phẫu thuật.

Tất cả các ca phẫu thuật đều được thực hiện theo đường tiếp cận cơ delta-cán lớn. Việc nắn xương và đặt nẹp vít được thực hiện theo quy trình chuẩn. Kỹ thuật tăng cường bằng xi măng vít sử dụng 0,5 ml xi măng để tăng cường đầu vít.
Việc bất động được thực hiện sau phẫu thuật bằng đai đeo vai tùy chỉnh trong 3 tuần. Vận động thụ động và vận động chủ động hỗ trợ sớm kèm theo điều chỉnh đau được bắt đầu sau 2 ngày phẫu thuật để đạt được phạm vi vận động đầy đủ (ROM).
Ⅱ.Kết quả.
Kết quả: Có 24 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, với độ tuổi trung bình là 77,5 tuổi (dao động từ 62-96 tuổi). Có 21 bệnh nhân nữ và 3 bệnh nhân nam. Có 5 trường hợp gãy xương 2 mảnh, 12 trường hợp gãy xương 3 mảnh và 7 trường hợp gãy xương 4 mảnh được điều trị phẫu thuật bằng nẹp vít cố định góc và tăng cường thêm xi măng vít. Có 3 trong số 24 trường hợp gãy xương là gãy chỏm xương cánh tay. 12 trong số 24 bệnh nhân đã nắn chỉnh về mặt giải phẫu; 15 trong số 24 bệnh nhân (62,5%) đã nắn chỉnh hoàn toàn vỏ xương trong. Sau 3 tháng phẫu thuật, 20 trong số 21 bệnh nhân (95,2%) đã liền xương, ngoại trừ 3 bệnh nhân cần phẫu thuật chỉnh sửa sớm.



Một bệnh nhân bị di lệch thứ phát sớm (mảnh chỏm xương cánh tay xoay ra sau) 7 tuần sau phẫu thuật. Phẫu thuật chỉnh sửa được thực hiện bằng phẫu thuật thay khớp vai ngược 3 tháng sau phẫu thuật. 3 bệnh nhân (2 trong số đó bị gãy chỏm xương cánh tay) đã được quan sát thấy sự xuyên thủng của vít ban đầu do rò rỉ xi măng nội khớp nhỏ (không có sự xói mòn lớn của khớp) trong quá trình theo dõi chụp X-quang sau phẫu thuật. 2 bệnh nhân bị xuyên thủng vít ở lớp C của nẹp góc và một bệnh nhân khác ở lớp E (Hình 3). 2 trong số 3 bệnh nhân này sau đó bị hoại tử vô mạch (AVN). Các bệnh nhân đã được phẫu thuật chỉnh sửa do sự phát triển của AVN (Bảng 1, 2).
Ⅲ.Cuộc thảo luận.
Biến chứng thường gặp nhất ở gãy xương cánh tay gần (PHF), bên cạnh sự phát triển của hoại tử vô mạch (AVN), là vít bị bong ra kèm theo xẹp chỏm xương cánh tay do khép lại. Nghiên cứu này phát hiện ra rằng việc tăng cường xi măng-vít dẫn đến tỷ lệ liền xương là 95,2% sau 3 tháng, tỷ lệ di lệch thứ phát là 4,2%, tỷ lệ AVN là 16,7% và tỷ lệ sửa lại tổng thể là 16,7%. Tăng cường xi măng cho vít dẫn đến tỷ lệ di lệch thứ phát là 4,2% mà không có bất kỳ xẹp khép lại nào, đây là tỷ lệ thấp hơn so với khoảng 13,7-16% khi cố định bằng nẹp góc thông thường. Chúng tôi khuyến nghị mạnh mẽ rằng cần nỗ lực để đạt được sự giảm giải phẫu đầy đủ, đặc biệt là vỏ xương cánh tay trong khi cố định bằng nẹp góc của PHF. Ngay cả khi áp dụng tăng cường đầu vít bổ sung, vẫn phải xem xét các tiêu chí thất bại tiềm ẩn đã biết.

Tỷ lệ chỉnh sửa chung là 16,7% khi sử dụng phương pháp tăng cường đầu vít trong nghiên cứu này nằm trong phạm vi thấp hơn của tỷ lệ chỉnh sửa đã công bố trước đây đối với các tấm ổn định góc truyền thống trong PHF, cho thấy tỷ lệ chỉnh sửa ở nhóm người cao tuổi dao động từ 13% đến 28%. Không phải chờ đợi. Nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, có đối chứng do Hengg và cộng sự thực hiện không cho thấy lợi ích của việc tăng cường vít xi măng. Trong tổng số 65 bệnh nhân hoàn thành theo dõi 1 năm, có 9 bệnh nhân bị suy cơ học và 3 bệnh nhân ở nhóm tăng cường. AVN được quan sát thấy ở 2 bệnh nhân (10,3%) và ở 2 bệnh nhân (5,6%) ở nhóm không tăng cường. Nhìn chung, không có sự khác biệt đáng kể về sự xuất hiện của các tác dụng phụ và kết quả lâm sàng giữa hai nhóm. Mặc dù các nghiên cứu này tập trung vào kết quả lâm sàng và hình ảnh học, nhưng chúng không đánh giá hình ảnh học chi tiết như nghiên cứu này. Nhìn chung, các biến chứng được phát hiện trên hình ảnh học tương tự như các biến chứng trong nghiên cứu này. Không có nghiên cứu nào trong số các nghiên cứu này báo cáo về rò rỉ xi măng trong khớp, ngoại trừ nghiên cứu của Hengg và cộng sự, những người đã quan sát thấy tác dụng phụ này ở một bệnh nhân. Trong nghiên cứu hiện tại, sự xuyên thủng vít ban đầu được quan sát thấy hai lần ở mức C và một lần ở mức E, sau đó là rò rỉ xi măng trong khớp mà không có bất kỳ liên quan nào về mặt lâm sàng. Thuốc cản quang được tiêm dưới sự kiểm soát của màn huỳnh quang trước khi tăng cường xi măng cho từng vít. Tuy nhiên, cần thực hiện các chế độ chụp X-quang khác nhau ở các vị trí cánh tay khác nhau và đánh giá cẩn thận hơn để loại trừ bất kỳ sự xuyên thủng vít ban đầu nào trước khi đặt xi măng. Hơn nữa, nên tránh gia cố xi măng cho vít ở mức C (cấu hình vít phân kỳ) do nguy cơ xuyên thủng vít chính cao hơn và rò rỉ xi măng sau đó. Không khuyến cáo tăng cường đầu vít xi măng ở những bệnh nhân bị gãy đầu xương cánh tay do khả năng rò rỉ trong khớp cao được quan sát thấy trong kiểu gãy này (được quan sát thấy ở 2 bệnh nhân).
VI. Kết luận.
Trong điều trị gãy xương hở (PHF) bằng nẹp vít ổn định góc sử dụng xi măng PMMA, việc đặt vít đầu xi măng là một kỹ thuật phẫu thuật đáng tin cậy giúp tăng cường cố định implant vào xương, mang lại tỷ lệ di lệch thứ phát thấp chỉ 4,2% ở bệnh nhân loãng xương. So với các tài liệu hiện có, tỷ lệ hoại tử vô mạch (AVN) tăng cao chủ yếu được ghi nhận ở các kiểu gãy xương nghiêm trọng và điều này cần được lưu ý. Trước khi đặt xi măng, cần loại trừ cẩn thận rò rỉ xi măng nội khớp bằng cách tiêm thuốc cản quang. Do nguy cơ rò rỉ xi măng nội khớp cao trong gãy chỏm xương cánh tay, chúng tôi không khuyến cáo đặt vít đầu xi măng trong trường hợp gãy này.
Thời gian đăng: 06-08-2024